Image default

Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với lãnh đạo quản lý ở việt nam hiện

Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với lãnh đạo quản lý ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.57 KB, 13 trang)

MỤC LỤC

1. PHẦN MỞ ĐẦU

Mối quan hệ giữa dư luận xã hội (DLXH) và truyền thông đại chúng(TTĐC) với lãnh đạo quản lý là mối quan hệ có tính hai mặt. Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với lãnh đạo quản lý là một hiện tượng tinh thần đặc biệt của đời sống xã hội; nhận thức được những yêu cầu khoa học và ý nghĩa quan trọng của việc nghiên cứu nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng đối với công tác lãnh đạo quản lý; nắm vững quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta và tình hình công tác dư luận xã hội và truyền thông đại chúng ở Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, em chọn đề tài: “ Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với lãnh đạo quản lý ở Việt Nam hiện nay” để làm bài tiểu luận của mình.

2. PHẦN NỘI DUNG

1. Vấn đề đặt ra

Việc sử dụng dư luận xã hội và truyền thông đại chúng để phân tích các vấn đề trong quản lý lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay đang rất được coi trọng. Trong khi trong quản lý lãnh đạo nhấn mạnh đến vai trò của lãnh đạo; quản lý ở Việt Nam hiện nay, việc phân tích dư luận xã hội và truyền thông đại chúng có khả năng cho thấy các tương tác xã hội trong mối quan hệ giữa các yếu tố đó. Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng có thể tác động rất nhạy bén đến công tác lãnh đạo quản lý hiện nay. Nghiên cứu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng về công tác lãnh đạo quản lý xuất phát từ nhu cầu nhận thức khoa học về mối quan hệ giữa các nội dung trong công tác quản lý lãnh đạo, xuất phát từ nhu cầu của các nhà lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay. Đây là cách làm cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác quản lý lãnh đạo. Ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng nhằm phục vụ cho hoạt động của các nhà lãnh đạo quản lý từng bước được quan tâm hơn. Trong những năm gần đây, báo chí đã tuyên truyền phản ánh rất nhiều thông tin chính sách của các nhà quản lý lãnh đạo, bằng nhiều hình thức báo chí,
qua nhiều kênh truyền tải khác nhau. Đồng thời báo chí cũng là diễn đàn thể hiện ý chí tâm tư nguyện vọng của nhà lãnh đạo quản lý với các chính sách, quyết định mà các nhà lãnh đạo quản lý ban hành. Đảng và Nhà nước đã công nhận vai trò của truyền thông báo chí trong hoạt động quản lý lãnh đạo – vai trò không thể thay thế được trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội, tạo nên những lợi ích to lớn trong việc ban hành, triển khai phổ biến, giám sát và ghi nhận hiệu quả của các chính sách lãnh đạo quản lý. Và đến lượt mình, dư luận xã hội lại có tác động rất lớn trong việc điều hòa các mối quan hệ xã hội, trong việc kiểm soát xã hội, tạo hiệu quả cao cho hoạt động quản lý lãnh đạo.

Làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với dư luận xã hội cũng như vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong hoạt động quản lý lãnh đạo – nhìn từ góc độ xã hội học truyền thông đại chúng – là một hướng tiếp cận để có thể phân tích cơ chế tác động, sức mạnh của truyền thông báo chí và rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động truyền thông cho quản lý lãnh đạo cũng như trong công tác tư tưởng và công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Theo chuyên gia phân tích về quản trị truyền thông, trong điều kiện Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân nên cần nhận thức và sử dụng có hiệu quả dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với tính chất như là một công cụ đặc biệt của quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước.

Hiện nay, kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng của cán bộ lãnh đạo, quản lý tại các địa phương, đặc biệt là cấp huyện, cấp tỉnh cần được coi là một tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý. Thậm chí, việc quan tâm, tiếp cận và nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thực chất là thước đo về mức độ “gần dân, bám sát thực tiễn” của cán bộ.

2. Phân tích một số khái niệm

2.1. Khái niệm “ dư luận xã hội”

Cuộc tranh luận xung quanh khái niệm “dư luận xã hội” đã xuất hiện và kéo dài từ hơn hai trăm năm nay. Thuật ngữ này được nhà văn, nhà hoạt động nhà nước người Anh J. Solsbery sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 12. Tuy nhiên, Jean-Jacques Pousseau, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháo mới được coi là người đầu tiên sử dụng nó vào năm 1744 theo nghĩa hiện đại. Sự tranh luận về khái niệm này diễn ra khá sôi nổi vào thời kỳ mà các cuộc cách mạng tư sản đang diễn ra, khi những quan điểm và hành động của con người ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình các cuộc cách mạng tư sản và trở thành nhân tố góp phần quyết định đến thắng lợi của giai cấp tư sản trẻ tuổi đối với giai cấp phong kiến. Theo Rútxô, một đại biểu của các nhà khai sáng Pháp, cho rằng dư luận xã hội là sự đánh giá của xã hội về hoạt động của nghị viện hoặc của chính phủ.

Trong tiếng Việt, DLXH còn được gọi theo những cách khác nhau bằng những thuật ngữ tương đương là công luận, dư luận công chúng, ý kiến công luận, ý kiến quần chúng. Thuật ngữ này xuất hiện rộng rãi trên một số ngành khoa học như chính trị học, triết học, xã hội học, tâm lý học xã hội,…nhưng cho đến nay, vẫn
“không có một định nghĩa được chấp nhận chung”. Do đó, hiểu một cách chung nhất, DLXH là ý kiến còn lại sau quá trình thảo luận trao đổi trong xã hội. Nói cách khác, nó là kết quả của quá trình thảo luận xã hội. Nếu dựa vào các cách phân loại chủ thể và khách thể của DLXH, ta có thể hiểu DLXH là những thái độ, những cảm xúc, hay các ý tưởng của một bộ phận lớn người dân về những vấn đề công chúng quan tâm. Dưới sự lý giải của nhà truyền thông, “DLXH được cho là hiệu quả tức thì của truyền thông đại chúng. DLXH tích cực là một điều kiện dẫn đến ổn định chính trị xã hội. Từ DLXH sẽ dần dẫn đến các hành vi xã hội rộng lớn, tạo sức ép thúc đẩy, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc đối với việc nhận thức và giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Truyền thông đại chúng (mass media) là kênh có vai trò quan trọng trong việc thảo luận xã hội vì nó có khả năng tập hợp, thu hút đông đảo công chúng tham gia.

2.2. Khái niệm “truyền thông đại chúng”

Theo PGS. TS Mai Quỳnh Nam, cách hiểu phổ biến nhất để hiểu về truyền thông: Đó là hoạt động chuyển tải và chia sẻ thông tin. Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kỹ năng liên kết với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu. Các khâu này chuyển đổi tương đối linh hoạt để
hướng tới sự thay đổi nhận thức và hành vi của các cá nhân và các nhóm. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự ra đời của phương tiện truyền thông hiện đại là sự hình thành hệ thống các kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội hiện đại. Truyền thông đại chúng ngày nay được hiểu như là toàn bộ những kỹ thuật lan truyền thông tin tới những nhóm xã hội lớn, mà chủ yếu bằng báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc các phương tiện khác như sách, áp phích…

Truyền thông đại chúng mang nhiều vai trò và chức năng trong đời sống xã hội. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong việc hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Từ những phân tích trên, truyền thông là hoạt động truyền phát và trao đổi thông tin giữa người với người nhằm đạt được sự hiểu biết và tạo ra sự giao tiếp, liên kết xã hội. Truyền thông đại chúng được hiểu là một quá trình truyền đạt thông tin đến các nhóm cộng đồng đông đảo trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện truyền thông đại chúng bao gồm báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, sách, phim, video, internet.

2.3. Khái niệm quản lý, lãnh đạo

Hai thuật ngữ này thường dùng cho các hệ thống có các con người ở trong, chúng không đồng nhất về nghĩa. Chúng giống nhau là đều bao hàm nghĩa tác động và điều khiển nhưng khác nhau về mức độ và phương thức tiến hành. Lãnh đạo là quá trình định hướng dài hạn cho chuỗi các tác động của chủ thể quản lý. Còn quản lý là quá trình chủ thể tổ chức liên kết và tác động lên đối tượng bị quản lý để thực hiện các định hướng tác động dài hạn. Lãnh đạo là quản lý nhưng mục tiêu rộng hơn, xa hơn, khái quát cụ thể
hơn. Còn quản lý là lãnh đạo trong trường hợp mục tiêu cụ thể hơn, chuẩn xác hơn. Có lúc người quản lý phải làm người lãnh đạo và ngược lại. Việc lãnh đạo và quản lý do chủ thể quản lý tiến hành, chủ thể có thể là duy nhất, cũng có thể là không duy nhất. Tuy nhiên để cho quá trình quản lý có hiệu quả thì lãnh đạo và quản lý phải thống nhất với nhau.

3. Ví dụ

Theo một số kết quả nghiên cứu của Viện Dư luận xã hội, việc nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó các cấp hiện đang được thực hiện thông qua các kênh khác nhau. Chẳng hạn, nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thông qua phản ánh của hệ thống mạng lưới cộng tác viên; qua báo cáo nhanh (thường là báo cáo hằng tuần); thông qua các cuộc họp, tiếp xúc quần chúng, cử tri; qua tiếp cận bằng sự trải nghiệm của cá nhân, nhất là dùng các phương pháp điều tra xã hội học,…

Ví dụ cụ thể: 55,2% có hiểu biết ở mức độ bình thường về các yếu tố ảnh hưởng đến dư luận xã hội và truyền thông đại chúng; các quan điểm tiếp cận về dư luận xã hội và truyền thông đại chúng (55,0%); các kênh tiếp cận nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng (54,6%),… Trong khi đó, tỷ lệ ý kiến khẳng định mức độ hiểu biết tốt về dư luận xã hội và truyền thông đại chúng còn rất thấp (từ 6,7% đến 36,2%).Chẳng hạn, có 36,2% cán bộ cho biết họ có nhận thức tốt về vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong lãnh đạo, quản lý; Có 35,8% số cán bộ cho biết có nhận thức tốt về nội dung, bản chất của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Chỉ có 6,7% số cán bộ cho biết họ có hiểu biết tốt về giải pháp nâng cao vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong lãnh đạo, quản lý. Ngoài ra, số liệu khảo sát còn cho biết, nhiều vấn đề, nội dung liên quan đến dư luận xã hội và truyền thông đại chúng vẫn còn có tới 10% ý kiến khẳng định: Chưa hề được tiếp cận.

Trong bối cảnh hiện nay, việc cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có quan tâm và có kỹ năng nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng cần phải được xem là một tiêu chuẩn cần thiết để đánh giá năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ. Bởi vì, quan tâm, tiếp cận và nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thực chất thước đo về mức độ “gần dân”, “bám sát thực tiễn” của cán bộ. Không những vậy, nó còn thể hiện vấn đề dân chủ hóa, cũng như điều kiện góp phần cho các chủ trương chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ngày càng đi vào cuộc sống hơn. Với tư cách là chủ thể quản lý, cán bộ quản lý cấp huyện phải thực hiện chức năng mà bất cứ người quản lý nào cũng phải làm đó là thực hiện các chức năng chỉ dẫn hoạt động như: lập kế hoạch, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra, kiểm soát thúc đẩy việc thực hiện kế hoạch về lĩnh vực quản lý do mình phụ trách. Cán bộ quản lý các cấp là người quản lý cấp trung gian, là cầu nối từ cấp Trung ương, qua tỉnh tới cấp xã, tạo nên một bộ máy lãnh đạo liên tục, nhất quán trong bộ máy hành chính. Cán bộ quản lý cấp huyện cũng góp phần triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đến với từng người dân và ngược lại, mọi nguyện vọng của nhân dân đều được họ tiếp thu, xử lý và phản ánh kịp thời lên cơ quan quản lý cấp trên.

4. Nhận xét và đánh giá

Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là một hiện tượng tinh thần xã hội có thể “đo đạc” được bằng các phương pháp khoa học. Do có thể “đo đạc” được, dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là các thông tin không chỉ rõ ràng dưới góc độ định tính mà còn rõ ràng dưới góc độ định lượng. Nhờ có các thông tin toàn diện như vậy, chúng ta mới có thể đánh giá đúng thực trạng, tư tưởng cảu xã hội. Nhân dân có ủng hộ các chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước hay không? Bao nhiêu % ủng hộ, bao nhiêu % bi quan,…đều có thể “đo đạc” được bằng các cuộc thăm dò dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Nhờ kết quả của các cuộc điều tra dư luận xã hội và truyền thông đại chúng nhằm đánh giá tình hình tâm trạng, tư tưởng sẽ bớt đi tính mơ hồ của các nhận định chung chung. Các dữ liệu của các cuộc điều tra dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là các cơ sở khách quan giúp viết báo cáo đưa ra những nhận định khách quan sâu sắc về tình hình tâm trạng, tư tưởng trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, hoạt động lãnh đạo, quản lý các cấp mang tính chất rất phức tạp, chuyên biệt do chính vị trí, chức năng và điều kiện thực tiễn địa phương quy định bởi đặc điểm của đối tượng quản lý với các ngành nghề khác nhau (nông, lâm, ngư nghiệp…); các vấn đề nhân sự và nguồn nhân lực địa phương.

Trên thực tế, không một người cán bộ quản lý nào lại có thể chuẩn bị sẵn và đầy đủ các phương án để giải quyết mọi tình huống phát sinh đó. Vì vậy, đòi hỏi người cán bộ quản lý chủ chốt phải có sự nhạy bén, sáng tạo, quyết đoán trong những hoàn cảnh cụ thể để đưa ra quyết định lãnh đạo đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật. Thực tiễn đó cũng yêu cầu người cán bộ quản lý cấp huyện phải có trình độ chuyên môn, am hiểu khoa học quản lý và có kỹ năng quản lý, biết phát huy tối đa tiềm năng vốn có của con người, khiến họ hoạt động một cách tích cực và góp phần thực hiện mục tiêu chung của toàn địa phương. Trong những kỹ năng quản lý đó, nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong việc hình thành quyết định quản lý của cán bộ chủ chốt là rất cần thiết và là một trong những yếu tố mang đến thành công trong chỉ đạo, điều hành của người lãnh đạo, quản lý.

Trong thời đại bùng nổ thông tin từ mạng Internet toàn cầu, vấn đề quản lý trong lĩnh vực thông tin đại chúng ở Việt Nam đang đặt ra một cách cấp bách nhìn từ giác độ dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Truyền thông tự do (facebook cá nhân, website, blog cá nhân…) là một “kiểu” dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thời kỹ thuật số đang phát triển và trở thành như một xu thế không thể khác được. Bên cạnh đó, trong đời sống hằng ngày ở nước ta hiện nay đã xuất hiện không ít nơi xảy ra tình trạng dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thờ ơ với chính quyền, không quan tâm đến các hoạt động của chính quyền, người dân hành xử kiểu đối phó với các chính sách của chính quyền. Ngoài ra, có không ít trường hợp xuất hiện tình trạng đề cao quá mức vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng dẫn đến tình trạng chạy theo dư luận xã hội. Đa số người dân, kể cả các cấp quản lý cũng không phân biệt rõ được ranh giới giữa dư luận xã hội; truyền thông đại chúng và tin đồn. Đã có rất nhiều trường hợp người ta đã đồng nhất chúng với nhau, khi biến tin đồn thành dư luận xã hội, tức là đã ít nhiều gây ảnh hưởng xấu đến cá nhân và tổ chức,… Theo các nhà nghiên cứu, đây chính là những trạng thái không bình thường của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Do vậy Nhà nước cần phải lường trước và đóng vai trò thực hiện chức năng xem xét, chấn chỉnh, kiện toàn,… nhằm thúc đẩy tính tích cực và lành mạnh hoá sự tác động của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội. Theo đó, cần coi dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là công cụ của quản lý phát triển xã hội. Các nhà lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ, quản lý chủ chốt cần phải nắm bắt dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, để từ đó đề xuất sáng kiến, đường lối chủ trương chính sách pháp luật cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng giúp người cán bộ, lãnh đạo địa phương phát hiện những khiếm khuyết, bất cập, kẽ hở trong đường lối chính sách pháp luật, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến cáo với các cơ quan chức
năng để bổ sung, hoàn thiện hoặc điều chỉnh.

Thông qua kết quả điều tra dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, cán bộ quản lý sẽ biết được người dân suy nghĩ và phản ứng như thế nào trước những quyết sách hoặc những trăn trở, băn khoăn của người dân trước những vấn đề của địa phương hay của quốc gia,…
Đặc biệt, việc nghiên cứu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng còn giúp nhà quản lý, lãnh đạo phát hiện và giải quyết các điểm nóng, giải tỏa những căng thẳng xung đột xã hội tiềm tàng. Thông qua việc tham khảo dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, những nhà hoạch định chính sách sẽ tìm kiếm cách trung hoà ý nguyện của người dân với những mục tiêu chính sách của Nhà nước, hoặc ít nhất họ cũng tính đến dư luận xã hội và truyền thồn đại chúng trong những hoạch định chính sách của họ, từ đó họ cố gắng tránh những quyết định mà họ tin rằng sẽ nhận được sự phản đối mạnh mẽ từ phía dư luận xã hội và
truyền thông đại chúng.

Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân, do vậy càng phải nhận thức và sử dụng có hiệu quả dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với tính chất như là một công cụ đặc biệt của quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước.
Việc quan tâm nắm bắt và sử dụng dư luận xã hội và truyền thông đại chúng một cách thường xuyên và thấu đáo trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của mình chính là một phương thức tốt nhất để phát huy cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” trong thực tế ở từng cơ quan, địa phương cụ thể.
Việc thực hiện thường xuyên các cuộc điều tra dư luận xã hội của Đảng, Quốc hội Việt Nam cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tăng cường dân chủ và trong việc tạo điều kiện cho người dân có thể tham gia ý kiến vào những vấn đề quan trọng của đất nước. Chính những văn bản pháp luật, chính sách được hình thành từ những ý nguyện của người dân sẽ có khả năng áp dụng vào thực tiễn cao nhất. Điều đó cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan công quyền ở Việt Nam, đặc biệt là cấp huyện. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của người dân sẽ giúp các người lãnh đạo, quản lý kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả hơn trong việc đưa ra các quyết định điều hành của cán bộ, quản lý tại địa phương.

PHẦN KẾT LUẬN

Với cơ chế hình thành và thể hiện dư luận xã hội; truyền thông đại chúng, từ chức năng định hướng dư luận cho tới tính chính xác, tính trung thực, tính công khai và minh bạch trong thông tin được đưa ra của các cơ quan truyền thông đại chúng là những vấn đề hết sức quan trọng. Từ thực tiễn truyền thông đại chúng mà cụ thể là báo chí ở Việt Nam những năm gần đây, có thể khẳng định rằng, báo chí đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào hoạt động nghiên cứu dư luận xã hội về hoạt động lãnh đạo quản lý. Không có sự tham gia tích cực của báo chí thì kết quả đã không thể đạt được như hiện nay. Hiệu quả của việc thể hiện dư luận xã hội trên báo chí chính nhờ biết khai thác tốt cơ chế
hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng của ta đã có những phản ứng nhanh nhạy trong việc đưa tin về các phiên trả lời chất vấn. Cụ thể như bên cạnh việc chuyển tải những nội dung chính bằng truyền hình, phát thanh trực tiếp, các phương tiện truyền thông còn thể hiện cả những ý kiến trái ngược hoặc những phản ứng của các nhà quản lý lãnh đạo. Điều này ít nhiều cũng khiến những
người có trách nhiệm phải cân nhắc và xem xét lại cách thức trả lời của mình trong những lần tiếp theo.
Vấn đề đặt ra hiện nay là nhiều chương trình truyền hình trực tiếp vẫn chưa tạo được hiệu quả cao vì chưa tạo được phạm vi và cường độ dư luận xã hội lớn. Chính vì thế, việc nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng, đặc biệt là nghiên cứu dư luận xã hội làm cơ sở cho công tác truyền thông nói chung và công tác truyền hình nói riêng cần được đặt ra nhiều hơn nữa trong thời gian tới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Minh Anh (2012), “ Vai trò của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở trong việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ở Việt Nam”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Lê Ngọc Hùng (2004), Xã hội học hành chính: “ Nghiên cứu giao tiếp và dư luận xã hội trong cải cách hành chính”, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
3. Đinh Xuân Lý (2010), “ Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. PGS. TS Mai Quỳnh Nam, “ Dư luận xã hội- mấy vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu” – Tạp chí XX số 1, 1995.
5. PGS.TS Mai Quỳnh Nam, “ Bài giảng Xã hội học truyền thông đại chúng”, Lớp CHK5, TP.HCM, 2013.
6. Nguyễn Quý Thanh, “ Xã hội học về dư luận xã hội”, NXB ĐHQG Hà Nội, 2013.
7. Trần Hữu Quang, Xã hội học Báo chí, Nxb Trẻ & TBKT Sài Gòn, 2004.

 Đây là cách làm thiết yếu để nâng cao hiệu suất cao hoạt động của công tác làm việc quản trị chỉ huy. Ở nước ta lúc bấy giờ, việc nghiên cứu và điều tra dư luận xã hội và truyền thông đại chúng nhằm mục đích ship hàng cho hoạt động giải trí của những nhà lãnh đạo quản lý từng bước được chăm sóc hơn. Trong những năm gần đây, báo chí truyền thông đã tuyên truyền phản ánh rất nhiều thông tin chủ trương của những nhà quản trị chỉ huy, bằng nhiều hình thức báo chí truyền thông, qua nhiều kênh truyền tải khác nhau. Đồng thời báo chí truyền thông cũng là forum thể hiện ý chí tâm tư nguyện vọng của nhà chỉ huy quản trị với những chủ trương, quyết định hành động mà những nhà chỉ huy quản trị phát hành. Đảng và Nhà nước đã công nhận vai trò của truyền thông báo chí trong hoạt động quản trị chỉ huy – vai trò không hề thay thế sửa chữa được trong việc hình thành và biểu lộ dư luận xã hội, tạo nên những quyền lợi to lớn trong việc ban hành, tiến hành phổ cập, giám sát và ghi nhận hiệu suất cao của những chủ trương lãnh đạo quản trị. Và đến lượt mình, dư luận xã hội lại có ảnh hưởng tác động rất lớn trong việc điều hòa những mối quan hệ xã hội, trong việc trấn áp xã hội, tạo hiệu suất cao cao cho hoạt động giải trí quản trị chỉ huy. Làm rõ mối quan hệ giữa truyền thông đại chúng với dư luận xã hội cũng như vai trò của những phương tiện đi lại truyền thông đại chúng trong hoạt động giải trí quản lý lãnh đạo – nhìn từ góc nhìn xã hội học truyền thông đại chúng – là một hướng tiếp cận để hoàn toàn có thể nghiên cứu và phân tích cơ chế tác động, sức mạnh của truyền thông báo chí và rút ra những bài học kinh nghiệm kinh nghiệm tay nghề có ý nghĩa thực tiễn trong hoạt động giải trí truyền thông cho quản trị chỉ huy cũng như trong công tác làm việc tư tưởng và công cuộc xây dựng và tăng trưởng quốc gia.

Theo chuyên viên nghiên cứu và phân tích về quản trị truyền thông, trong điều kiện kèm theo Việt Nam thiết kế xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân nên cần nhận thức và sử dụng có hiệu suất cao dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với đặc thù như thể một công cụ đặc biệt quan trọng của quy trình chỉ huy, quản trị đất nước. Hiện nay, kỹ năng và kiến thức chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng của cán bộ chỉ huy, quản trị tại những địa phương, đặc biệt quan trọng là cấp huyện, cấp tỉnh cần được coi là một tiêu chuẩn thiết yếu để nhìn nhận năng lượng chỉ huy, quản trị. Thậm chí, việc chăm sóc, tiếp cận và chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thực ra là thước đo về mức độ “ gần dân, bám sát thực tiễn ” của cán bộ.

2. Phân tích một số ít khái niệm

2. 1. Khái niệm “ dư luận xã hội ”

Cuộc tranh luận xung quanh khái niệm “ dư luận xã hội ” đã Open vàkéo dài từ hơn hai trăm năm nay. Thuật ngữ này được nhà văn, nhà hoạt động nhà nước người Anh J. Solsbery sử dụng lần tiên phong vào thế kỷ . Tuy nhiên, Jean-Jacques Pousseau, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháo mới được coi là người đầu tiên sử dụng nó vào năm 1744 theo nghĩa văn minh. Sự tranh luận về khái niệm này diễn ra khá sôi sục vào thời kỳ mà những cuộc cách mạng tư sản đang diễn ra, khi những quan điểm và hành vi của con người tác động ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình những cuộc cách mạng tư sản và trở thành tác nhân góp thêm phần quyết định đến thắng lợi của giai cấp tư sản trẻ tuổi so với giai cấp phong kiến. Theo Rútxô, một đại biểu của những nhà khai sáng Pháp, cho rằng dư luận xã hội là sự đánh giá của xã hội về hoạt động giải trí của nghị viện hoặc của chính phủ nước nhà. Trong tiếng Việt, DLXH còn được gọi theo những cách khác nhau bằng những thuật ngữ tương đương là công luận, dư luận công chúng, quan điểm công luận, quan điểm quần chúng. Thuật ngữ này Open thoáng đãng trên một số ít ngành khoa học như chính trị học, triết học, xã hội học, tâm lý học xã hội, … nhưng cho đến nay, vẫn “ không có một định nghĩa được gật đầu chung ”. Do đó, hiểu một cách chung nhất, DLXH là quan điểm còn lại sau quá trình thảo luận trao đổi trong xã hội. Nói cách khác, nó là hiệu quả của quy trình thảo luận xã hội. Nếu dựa vào những cách phân loại chủ thể và khách thể của DLXH, ta có thể hiểu DLXH là những thái độ, những cảm hứng, hay những sáng tạo độc đáo của một bộ phận lớn người dân về những yếu tố công chúng chăm sóc. Dưới sự lý giải của nhà truyền thông, “ DLXH được cho là hiệu suất cao tức thì của truyền thông đại chúng. DLXH tích cực là một điều kiện kèm theo dẫn đến không thay đổi chính trị xã hội. Từ DLXH sẽ dần dẫn đến những hành vi xã hội to lớn, tạo sức ép thôi thúc, tạo ra những khuôn khổ bắt buộc so với việc nhận thức và xử lý những yếu tố chính trị, kinh tế tài chính, văn hóa truyền thống, xã hội. Truyền thông đại chúng ( mass truyền thông ) là kênh có vaitrò quan trọng trong việc đàm đạo xã hội vì nó có năng lực tập hợp, thu hút đông hòn đảo công chúng tham gia.

2.2. Khái niệm “ truyền thông đại chúng ”

Theo PGS. tiến sỹ Mai Quỳnh Nam, cách hiểu thông dụng nhất để hiểu về truyền thông : Đó là hoạt động giải trí chuyển tải và san sẻ thông tin. Quá trình này diễn ra liên tục, trong đó tri thức, tình cảm và kiến thức và kỹ năng link với nhau. Đây là một quá trình phức tạp qua nhiều khâu. Các khâu này quy đổi tương đối linh động để hướng tới sự đổi khác nhận thức và hành vi của những cá thể và những nhóm. Cùng với sự tăng trưởng của khoa học kỹ thuật, sự sinh ra của phương tiện truyền thông văn minh là sự hình thành mạng lưới hệ thống những kênh thông tin đại chúng như một thiết chế xã hội quan trọng của xã hội tân tiến. Truyền thông đại chúng ngày nay được hiểu như thể hàng loạt những kỹ thuật lan truyền thông tin tới những nhóm xã hội lớn, mà hầu hết bằng báo in, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, internet hoặc những phương tiện đi lại khác như sách, áp phích … Truyền thông đại chúng mang nhiều vai trò và công dụng trong đời sống xã hội. Thế nhưng, dưới cái nhìn của xã hội học, cơ chế tác động qua lại giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và biểu lộ dư luận xã hội.

Từ những nghiên cứu và phân tích trên, truyền thông là hoạt động giải trí truyền phát và trao đổi thông tin giữa người với người nhằm mục đích đạt được sự hiểu biết và tạo ra sự tiếp xúc, liên kết xã hội. Truyền thông đại chúng được hiểu là một quy trình truyền đạt thông tin đến những nhóm hội đồng phần đông trong xã hội trải qua những phương tiện truyền thông đại chúng. Các phương tiện đi lại truyền thông đại chúng bao gồm báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, sách, phim, video, internet.

2.3. Khái niệm quản trị, lãnh đạo

Hai thuật ngữ này thường dùng cho những mạng lưới hệ thống có những con người ở trong, chúng không giống hệt về nghĩa. Chúng giống nhau là đều bao hàm nghĩa tác động và tinh chỉnh và điều khiển nhưng khác nhau về mức độ và phương pháp thực thi. Lãnh đạo là quy trình xu thế dài hạn cho chuỗi những ảnh hưởng tác động của chủ thể quản trị. Còn quản trị là quy trình chủ thể tổ chức triển khai link và tác động ảnh hưởng lên đối tượng bị quản trị để thực thi những khuynh hướng tác động ảnh hưởng dài hạn. Lãnh đạo là quản trị nhưng tiềm năng rộng hơn, xa hơn, khái quát cụ thể hơn. Còn quản trị là chỉ huy trong trường hợp tiềm năng đơn cử hơn, chuẩn xác hơn. Có lúc người quản trị phải làm người chỉ huy và ngược lại. Việc lãnh đạo và quản lý do chủ thể quản trị triển khai, chủ thể hoàn toàn có thể là duy nhất, cũng có thể là không duy nhất. Tuy nhiên để cho quy trình quản trị có hiệu suất cao thì lãnh đạo và quản trị phải thống nhất với nhau.

3. Ví dụ

Theo một số ít hiệu quả nghiên cứu và điều tra của Viện Dư luận xã hội, việc chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng của đội ngũ cán bộ chỉ huy, quản trị, trong đó những cấp hiện đang được thực thi trải qua những kênh khác nhau. Chẳng hạn, chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trải qua phản ánh của mạng lưới hệ thống mạng lưới cộng tác viên ; qua báo cáo giải trình nhanh ( thường là báo cáo hằng tuần ) ; trải qua những cuộc họp, tiếp xúc quần chúng, cử tri ; qua tiếp cận bằng sự thưởng thức của cá thể, nhất là dùng những chiêu thức tìm hiểu xã hội học, … Ví dụ đơn cử : 55,2 % có hiểu biết ở mức độ thông thường về những yếu tố ảnh hưởng đến dư luận xã hội và truyền thông đại chúng ; những quan điểm tiếp cận về dư luận xã hội và truyền thông đại chúng ( 55,0 % ) ; những kênh tiếp cận chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng ( 54,6 % ), … Trong khi đó, tỷ suất quan điểm chứng minh và khẳng định mức độ hiểu biết tốt về dư luận xã hội và truyền thông đại chúng còn rất thấp ( từ 6,7 % đến 36,2 % ). Chẳng hạn, có 36, 2 % cán bộ cho biết họ có nhận thức tốt về vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong chỉ huy, quản trị ; Có 35,8 % số cán bộ cho biết có nhận thức tốt về nội dung, thực chất của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Chỉ có 6,7 % số cán bộ cho biết họ có hiểu biết tốt về giải pháp nâng cao vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong chỉ huy, quản trị. Ngoài ra, số liệu khảo sát còn cho biết, nhiều yếu tố, nội dung tương quan đến dư luận xã hội và truyền thông đại chúng vẫn còn có tới 10 % quan điểm chứng minh và khẳng định : Chưa hề được tiếp cận. Trong toàn cảnh lúc bấy giờ, việc cán bộ chỉ huy, quản trị những cấp có quan tâm và có kỹ năng và kiến thức chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng cần phải được xem là một tiêu chuẩn thiết yếu để nhìn nhận năng lượng chỉ huy, quản trị của cán bộ. Bởi vì, chăm sóc, tiếp cận và chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thực ra thước đo về mức độ “ gần dân ”, “ bám sát thực tiễn ” của cán bộ. Không những vậy, nó còn biểu lộ yếu tố dân chủ hóa, cũng như điều kiện góp phần cho những chủ trương chủ trương, pháp lý của Đảng và Nhà nước ngày càng đi vào đời sống hơn.

Với tư cách là chủ thể quản trị, cán bộ quản trị cấp huyện phải thực thi công dụng mà bất kỳ người quản trị nào cũng phải làm đó là thực thi những công dụng hướng dẫn hoạt động giải trí như : lập kế hoạch, ra quyết định hành động, tổ chức triển khai thực thi quyết định hành động và kiểm tra, trấn áp thôi thúc việc thực thi kế hoạch về ngành nghề dịch vụ quản lý do mình đảm nhiệm. Cán bộ quản trị những cấp là người quản trị cấp trung gian, là cầu nối từ cấp Trung ương, qua tỉnh tới cấp xã, tạo nên một cỗ máy chỉ huy liên tục, nhất quán trong cỗ máy hành chính. Cán bộ quản trị cấp huyện cũng góp thêm phần triển khai những chủ trương, chủ trương của Đảng, Nhà nước đến với từng người dân và ngược lại, mọi nguyện vọng của nhân dân đều được họ tiếp thu, giải quyết và xử lý và phản ánh kịp thời lên cơ quan quản trị cấp trên.

4. Nhận xét và đánh giá

Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là một hiện tượng kỳ lạ ý thức xã hội hoàn toàn có thể “ đo đạc ” được bằng những chiêu thức khoa học. Do hoàn toàn có thể “ đo đạc ” được, dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là những thông tin không chỉ rõ ràng dưới góc nhìn định tính mà còn rõ ràng dưới góc nhìn định lượng. Nhờ có các thông tin tổng lực như vậy, tất cả chúng ta mới hoàn toàn có thể nhìn nhận đúng tình hình, tư tưởng cảu xã hội. Nhân dân có ủng hộ những chủ trương, quyết sách của Đảng và Nhà nước hay không ? Bao nhiêu % ủng hộ, bao nhiêu % bi quan, … đều hoàn toàn có thể “ đo đạc ” được bằng những cuộc thăm dò dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Nhờ hiệu quả của những cuộc tìm hiểu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng nhằm nhìn nhận tình hình tâm trạng, tư tưởng sẽ bớt đi tính mơ hồ của những nhận định chung chung. Các tài liệu của những cuộc tìm hiểu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là những cơ sở khách quan giúp viết báo cáo giải trình đưa ra những nhận định khách quan thâm thúy về tình hình tâm trạng, tư tưởng trong xã hội.

Thực tiễn cho thấy, hoạt động giải trí chỉ huy, quản trị những cấp mang đặc thù rất phức tạp, chuyên biệt do chính vị trí, tính năng và điều kiện kèm theo thực tiễn địa phương pháp luật bởi đặc thù của đối tượng người dùng quản trị với những ngành nghề khác nhau ( nông, lâm, ngư nghiệp … ) ; những yếu tố nhân sự và nguồn nhân lực địa phương. Trên trong thực tiễn, không một người cán bộ quản trị nào lại hoàn toàn có thể chuẩn bị sẵn sàng sẵn và không thiếu những giải pháp để xử lý mọi trường hợp phát sinh đó. Vì vậy, đòi hỏi người cán bộ quản trị chủ chốt phải có sự nhạy bén, phát minh sáng tạo, quyết đoán trong những thực trạng đơn cử để đưa ra quyết định hành động chỉ huy đúng đắn, phù hợp với pháp luật của pháp lý. Thực tiễn đó cũng nhu yếu người cán bộ quản trị cấp huyện phải có trình độ chuyên môn, am hiểu khoa học quản trị và có kỹ năng và kiến thức quản trị, biết phát huy tối đa tiềm năng vốn có của con người, khiến họ hoạt động giải trí một cách tích cực và góp phần thực thi tiềm năng chung của toàn địa phương. Trong những kỹ năng quản lý đó, chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng trong việc hình thành quyết định hành động quản trị của cán bộ chủ chốt là rất thiết yếu và là một trong những yếu tố mang đến thành công xuất sắc trong chỉ huy, quản lý của người chỉ huy, quản trị.

Trong thời đại bùng nổ thông tin từ mạng Internet toàn thế giới, yếu tố quản lý trong ngành thông tin đại chúng ở Nước Ta đang đặt ra một cách cấp bách nhìn từ giác độ dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Truyền thông tự do ( facebook cá thể, website, blog cá thể … ) là một “ kiểu ” dư luận xã hội và truyền thông đại chúng thời kỹ thuật số đang tăng trưởng và trở thành như một xu thế không hề khác được. Bên cạnh đó, trong đời sống hằng ngày ở nước ta hiện nay đã Open không ít nơi xảy ra thực trạng dư luận xã hội và truyền thông đại chúng lạnh nhạt với chính quyền sở tại, không chăm sóc đến những hoạt động giải trí của chính quyền, người dân hành xử kiểu đối phó với những chủ trương của chính quyền sở tại. Ngoài ra, có không ít trường hợp Open thực trạng tôn vinh quá mức vai trò của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng dẫn đến thực trạng chạy theo dư luận xã hội. Đa số người dân, kể cả những cấp quản trị cũng không phân biệt rõ được ranh giới giữa dư luận xã hội ; truyền thông đại chúng và lời đồn thổi. Đã có rất nhiều trường hợp người ta đã như nhau chúng với nhau, khi biến tin đồn thổi thành dư luận xã hội, tức là đã không ít gây ảnh hưởng tác động xấu đến cá thể và tổ chức triển khai, … Theo những nhà nghiên cứu, đây chính là những trạng thái không bình thường của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng. Do vậy Nhà nước cần phải lường trước và đóng vai trò triển khai tính năng xem xét, kiểm soát và chấn chỉnh, kiện toàn, … nhằm mục đích thôi thúc tính tích cực và lành mạnh hoá sự tác động ảnh hưởng của dư luận xã hội và truyền thông đại chúng so với đời sống xã hội. Theo đó, cần coi dư luận xã hội và truyền thông đại chúng là công cụ của quản lý tăng trưởng xã hội. Các nhà chỉ huy, quản trị, đặc biệt quan trọng là cán bộ, quản lý chủ chốt cần phải chớp lấy dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, để từ đó đề xuất ý tưởng sáng tạo, đường lối chủ trương chủ trương pháp lý cho tương thích với nhu cầu của xã hội.

Dư luận xã hội và truyền thông đại chúng giúp người cán bộ, chỉ huy địa phương phát hiện những khiếm khuyết, chưa ổn, kẽ hở trong đường lối chính sách pháp lý, trên cơ sở đó, đưa ra những khuyến nghị với những cơ quan chức năng để bổ trợ, triển khai xong hoặc kiểm soát và điều chỉnh. Thông qua hiệu quả tìm hiểu dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, cán bộ quản trị sẽ biết được người dân suy nghĩ và phản ứng như thế nào trước những quyết sách hoặc những trăn trở, băn khoăn của người dân trước những yếu tố của địa phương hay của vương quốc, … Đặc biệt, việc nghiên cứu và điều tra dư luận xã hội và truyền thông đại chúng còn giúp nhà quản trị, chỉ huy phát hiện và xử lý những điểm trung tâm, giải tỏa những căng thẳng xung đột xã hội tiềm tàng. Thông qua việc tìm hiểu thêm dư luận xã hội và truyền thông đại chúng, những nhà hoạch định chủ trương sẽ tìm kiếm cách trung hoà ý nguyện của dân cư với những tiềm năng chủ trương của Nhà nước, hoặc tối thiểu họ cũng tính đến dư luận xã hội và truyền thồn đại chúng trong những hoạch định chủ trương của họ, từ đó họ nỗ lực tránh những quyết định mà họ tin rằng sẽ nhận được sự phản đối can đảm và mạnh mẽ từ phía dư luận xã hội và truyền thông đại chúng.

Hiện nay, Nước Ta đang kiến thiết xây dựng nhà nước pháp quyền, nhà nước của dân, do dân và vì dân, do vậy càng phải nhận thức và sử dụng có hiệu suất cao dư luận xã hội và truyền thông đại chúng với đặc thù như thể một công cụ đặc biệt của quy trình chỉ huy, quản trị quốc gia. Việc chăm sóc chớp lấy và sử dụng dư luận xã hội và truyền thông đại chúng một cách liên tục và thấu đáo trong hoạt động giải trí chỉ huy, quản trị của mình chính là một phương pháp tốt nhất để phát huy chính sách “ Đảng chỉ huy, Nhà nước quản trị, Nhân dân làm chủ ” trong trong thực tiễn ở từng cơ quan, địa phương cụ thể. Việc triển khai liên tục những cuộc tìm hiểu dư luận xã hội của Đảng, Quốc hội Nước Ta cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng quan trọng trong việc tăng cường dân chủ và trong việc tạo điều kiện kèm theo cho dân cư hoàn toàn có thể tham gia quan điểm vào những yếu tố quan trọng của quốc gia. Chính những văn bản pháp lý, chủ trương được hình thành từ những ý nguyện của người dân sẽ có năng lực vận dụng vào thực tiễn cao nhất. Điều đó cũng góp thêm phần nâng cao hiệu suất cao hoạt động giải trí của những cơ quan công quyền ở Việt Nam, đặc biệt quan trọng là cấp huyện. Sự phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội của người dân sẽ giúp những người chỉ huy, quản trị kịp thời phát hiện những sơ hở, hạn chế, yếu kém trong công tác làm việc chỉ huy, quản trị của mình, trên cơ sở đó, kịp thời đề ra các giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu suất cao hơn trong việc đưa ra những quyết định điều hành của cán bộ, quản trị tại địa phương.

PHẦN KẾT LUẬN

Với chính sách hình thành và biểu lộ dư luận xã hội ; truyền thông đại chúng, từ tính năng khuynh hướng dư luận cho tới tính đúng chuẩn, tính trung thực, tính công khai và minh bạch trong thông tin được đưa ra của những cơ quan truyền thông đại chúng là những yếu tố rất là quan trọng. Từ thực tiễn truyền thông đại chúng mà đơn cử là báo chí truyền thông ở Nước Ta những năm gần đây, hoàn toàn có thể khẳng định rằng, báo chí truyền thông đã có những góp phần rất là quan trọng vào hoạt động nghiên cứu dư luận xã hội về hoạt động giải trí chỉ huy quản trị. Không có sự tham gia tích cực của báo chí truyền thông thì hiệu quả đã không hề đạt được như lúc bấy giờ. Hiệu quả của việc bộc lộ dư luận xã hội trên báo chí truyền thông chính nhờ biết khai thác tốt cơ chế hình thành và biểu lộ dư luận xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng của ta đã có những phản ứng nhanh nhạy trong việc đưa tin về những phiên vấn đáp phỏng vấn. Cụ thể như bên cạnh việc chuyển tải những nội dung chính bằng truyền hình, phát thanh trực tiếp, các phương tiện truyền thông còn biểu lộ cả những quan điểm trái ngược hoặc những phản ứng của những nhà quản trị chỉ huy. Điều này không ít cũng khiến những người có nghĩa vụ và trách nhiệm phải xem xét và xem xét lại phương pháp vấn đáp của mình trong những lần tiếp theo. Vấn đề đặt ra lúc bấy giờ là nhiều chương trình truyền hình trực tiếp vẫn chưa tạo được hiệu suất cao cao vì chưa tạo được khoanh vùng phạm vi và cường độ dư luận xã hội lớn.

Chính cho nên vì thế, việc điều tra và nghiên cứu xã hội học truyền thông đại chúng, đặc biệt quan trọng là nghiên cứu dư luận xã hội làm cơ sở cho công tác làm việc truyền thông nói chung và công tác truyền hình nói riêng cần được đặt ra nhiều hơn nữa trong thời hạn tới.

Xem thêm: Tìm hiểu thêm ngành báo chí

Nguồn: Tổng hợp từ Internet

Tin liên quan

Ngành marketing đại học Ngoại thương không đào tạo em sẽ học ở đâu?

khoinganhtt

Thông tin chi tiết ngành Kinh doanh Xuất bản phẩm

khoinganhtt

Danh sách các trường đào tạo ngành Truyền thông đa phương tiện được nhiều người theo học

khoinganhtt

Leave a Comment